Polly po-cket
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT


Phan_10

Katya chìa tấm thẻ tên cho hai sĩ quan cảnh sát và họ để cô qua. Nayir lái xe. Cô ngồi ở ghế trước và cảm nhận rõ nắng nóng trên hai má mặc dù hệ thống điều hòa trong chiếc Land Rover đang hoạt động. Phía sau họ là đội tìm dấu vết Murrah, Talib al-Shafi và hai ngưòi cháu của ông, chen chúc trong chiếc taxi tải sàn phẳng hiệu Toyota trông có vẻ còn lớn tuổi hơn cả cô.

Cô đã rất bối rối khi đề nghị Ibrahim cho phép cô làm việc này. Trong suốt cuộc trao đổi trên điện thoại, cô cảm thấy mình đã đủ trơ tráo khi đưa ra gợi ý kiểm tra các hồ sơ hành quyết. Sau đấy cô thấy nhạt hết hứng thú - hoặc có cảm giác là ông cảm thấy như vậy. Cô coi chuyến đi này dù sao cũng là một hệ quả nhẹ hơn, và cô đã thu xếp nó với sự giúp đỡ của Majdi thay vì ông. Ông đã cho cô số điện thoại của nhóm Murrah, và thật tốt là Nayir đã thay mặt cô gọi cho họ.

Hôm đó là ngày thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần. Nayir rất hào hứng vì có lý do để lên kế hoạch cho chuyến đi sa mạc cùng với cô, nhưng cô đã làm anh mất hứng trên đường đi khi nói về vụ Thiên sứ. Anh lắng nghe chăm chú, và phản ứng duy nhất là sự bàng hoàng khó tả. Nó vẫn còn hiện hữu trên gương mặt anh khi họ lái lên phía khu vực hiện trường.

Họ không quan tâm đến những điếm chôn cất mà chú ý đến các khu vực xung quanh chứng. Đó là khu vực đủ xa để tên giết ngưòi có thể, thí dụ như, đến đấy mà không bị cảnh sát bảo vệ phát giác chẳng hạn. Bởi vì hắn đã trở lại đấy. Hắn biết những cái xác đã được di dời.

Họ lái xe lên phía dải băng của hiện trường vụ án đang lấp lánh như những dải ruy-băng màu nhạt dưới ánh nắng chói chang. Tất cả bước ra khỏi xe để đi quan sát một vòng. Sau khi dò xét kỹ càng, nhóm tìm dấu vết cho rằng tốt nhất là đi về phía tây, ở đó địa hình dốc hơn nên sẽ dễ dàng hơn cho tên sát nhân quan sát khu vực này mà không bị phát hiện.

Họ lái xe trở lại con đường của hạt rồi tiến thẳng về phía tây với tốc độ có cảm giác còn chậm hơn cả tốc độ sụp đổ của một nền văn minh. Chiếc xe của nhóm Murrah ở phía trước, hai người cháu lúc này đã tỳ gối trên sàn xe, mỗi người một bên, chăm chú quan sát các dâu vết để lại trên con đường. Họ thậm chí còn để ý cả các vệt lốp xe, như những chú chó săn. Nayir và Katya hồi hộp quan sát họ.

Cuối cùng, họ dừng lại, rồi một người nhảy qua tấm chắn bùn và khẽ ghếch một bên vai. Họ đã thấy cái gì đó. Anh ta ra hiệu cho Nayir lùi xe lại và rẽ sang bên phải.

Nayir lái chiếc Land Rover lăn qua lớp cát và hạ kính cửa sổ xe xuống.

“Có vệt bánh xe ở đấy.” Người cháu trong nhóm Murrah vừa nói vừa chỉ vào điểm đỗ của chiếc Toyota. “Có ai đã đã xóa nó nhưng những dấu vết đó vẫn còn đấy.”

“Bọn chúng đã xóa dấu vết sao?” Nayir hỏi. “Bằng cái gì được nhỉ?”

“Một tấm bìa các-tông. Chúng tôi sẽ để xe lại đấy và đi bộ dẫn đường cho anh để chúng ta có thể để ý tới con đường.” Anh ta nhìn lướt qua Katya, ý nói rằng Chúng tôi sẽ không làm phiền sự riêng tư của vợ anh đâu. Nayir gật đầu với vẻ cảm kích. Katya cảm thấy mình trôi theo cái gật đầu đó, tuột vào một thế giới mà người ta mong là sẽ bị bỏ lại một mình trong ô-tô. Rồi cô tự nhắc mình rằng toàn bộ chuyến đi này là ý tưởng của cô - một phần là nhờ vào một phụ nữ Mỹ thậm chí còn không có che mặt - và rằng chỉ trong giây lát cô sẽ ra ngoài nắng cát đó và đầm đìa mồ hôi như những người đàn ông kia.

Họ đi theo nhóm Murrah khoảng hơn một cây số. Lốp xe của chiếc Rover phát ra tiếng lốp bốp khi chèn phải những hòn sỏi nằm rải rác chỗ này chỗ kia. Cuổi cùng, người trong nhóm Murrah giơ tay lên và Nayir dừng xe lại.

Katya ra khỏi xe và kéo tâm khăn lên che qua mũi và miệng, gài nó vào khăn trùm đầu. Cô làm vậy một phần là để nhóm Murrah được thoải mái, nhưng chủ yếu là vì ánh nắng bỏng rẫy làm rát khuôn mặt cô, nghĩa là sẽ làm các mô mềm trên mặt cô bị chảy nhão. Cô đeo cặp kính râm vào và theo bước Nayir, theo đúng nghĩa, khi cô bước lên các dấu chân của anh. Một người trong nhóm Murrah nhận thấy điều đó và nói với Nayir: “Cô ấy không phải làm vậy đâu. Chúng tôi biết dấu chân của cô ấy thế nào mà.”

“Cẩn thận cũng tốt mà.” Nayir đáp.

Bọn họ đứng ở đó, chờ đợi người ông, Talib, đang nghiền ngẫm các vệt lốp xe dẫn về phía con đường. Khi ông trở lại chỗ mọi người, ông nói: “Hắn lái một chiếc GMC và chiếc lốp phải phía trước bị non hơi. Chúng ta còn có gì nữa nào?”

Không lâu sau họ tìm thấy các dấu chân.

Talib không hề nói gì một lúc lâu; ông chỉ nghiền ngẫm mặt đất, loanh quanh đi lại và gật gật đầu như thể đang nghe gió kể chuyện vậy.

Ông ra hiệu cho Nayir lại gần rồi chỉ vào một chỗ mờ mờ dấu vết trên mặt đất, và bắt đầu giải thích. “Chiếc xe đã đỗ ở chỗ này. Hắn bước ra ngoài rồi đi đến chỗ đó, rồi quay trở lại chỗ chiếc xe tải ấy. Có lẽ hắn đã tức giận; những dấu chân giận dữ khi quay trở lại.”

Đó có thể là khi hắn phát hiện những cái xác đã biến mất.Katya nghĩ.

Mọi người đi theo dấu chân đến sát một đụn cát hơi uốn lượn. Từ chỗ này có thể dễ dàng thấy khu mộ chôn. “Hắn đã dừng lại ở đây.”

Talib nói. “Đây chính là địa điểm quan sát.”

Katya chụp một loạt ảnh. “Ông có biết vào khoảng thời gian nào hắn đến đây không?” Cô hỏi.

“Tôi có thể nói những dấu chân này đã có khoảng năm hoặc sáu ngày gì đó.” Ông nói.

“Lúc ấy cảnh sát vẫn còn ở đây.” Katya nói. “Và cả đội pháp y nữa. Hẳn là rất nhiều người.”

“Nếu hắn đến vào giữa buổi sáng,” Nayir nói, “mọi người sẽ không thể nhận ra hắn có mặt ở đây. Mặt trời lúc đó ở phía sau hắn.”

Talib gật đầu.

“Nhưng làm thế nào hắn qua mặt được xe cảnh sát trên đường nhỉ?”

“Từ phía nam.” Talib chỉ tay. “Có một con đường khác chạy quanh khu vực đó, và vết bánh xe của hắn rẽ vào từ hướng đối diện giống như chúng ta.”

“Có thể hắn có thói quen đến đây.” Katya nói. “Có lẽ lúc nào hắn cũng kiểm tra khu vực trước khi lại gần.” Cô nhớ lại năm hoặc sáu ngày trước. Đó chính là thời điểm họ tìm được bàn tay của Amina trên phố Falasteen. Có khả năng tên sát nhân đã đến đây kiểm tra khu vực của mình. Việc khám phá ra những cái xác đã bị phát hiện khiến hắn nổi khùng và thúc đẩy việc hắn chặt đứt bàn tay của Amina trước khi hắn chủ định làm vậy. Nhưng nếu Amina thực sự là một nạn nhân của hắn, thì câu hỏi đặt ra là tại sao bà ta không giống những nạn nhân trước đấy.

Katya tiếp tục chụp ảnh. Những người đàn ông khác đã bước ra chỗ khác, ngoại trừ Talib. Ông đứng đó nhìn về phía khu mộ chôn, cố ý lảng tránh cái nhìn chăm chú của Katya.

“Cô không phải làm vậy đâu.” Ông nói. “Tôi nhớ các dấu chân đó.” Khi quay đi, ông nói với qua vai. “Và đừng lo, nó sẽ được đưa ra trước tòa.”

Đã từ lâu bạn bè không còn hỏi khi nào thì cô sẽ cưới. Giờ cô đã hai mươi chín tuổi, cái tuổi quá lớn để có được một người chồng tử tế. Và việc hỏi thăm trở thành một điều khiếm nhã. Vài người bạn thân đã cố gắng tìm cho cô một anh chàng từ nhiều năm rồi. Cô luôn luôn nằm trong danh sách khách mời cưới đầu tiên của họ, bởi đám cưới là nơi mà chuyện mai mối diễn ra nhiều nhất. Nhưng sau khi việc đính hôn với Othoman không thành, ngay cả những người bạn đó của cô cũng thôi không bàn về chuyện hôn nhân nữa. Có lẽ họ nghĩ cô cần thời gian để lấy lại thăng bằng, hoặc có thể họ tin rằng cô sẽ chẳng thể nào bình thường trở lại được. Và khi sự im lặng đó mê hoặc cô, cô trở nên hoài nghi về những viễn tượng của chính mình mà thậm chí không hề nghĩ đến việc thực hiện nó.

Lời cầu hôn của Nayir đã hóa giải sự mê hoặc ấy. Thay vào đó, chính nó lại đặt một bùa chú khác lên cô.

Chặng đường về thật căng thẳng. Cô so sánh Nayir với em họ của mình. Ayman lớn lên ở Li-băng và dành một khoảng thời gian nhiều đến bất thường để xem truyền hình vệ tinh, chính vì vậy mà cậu hiểu biết rất rộng về thế giới. Cậu biết chính xác một tên giết người hàng loạt là thế nào và thậm chí còn ngay lập tức nhớ lại những mẩu tin nhỏ nhặt. Liệu cô có biết John Gacy đã hãm hiếp ba mươi nạn nhân nam giới và chôn họ dưới tầng hầm nhà hắn không? Và chuyện Jeffrey Dahmer đã cố biến các nạn nhân thành thây ma sống? (Kể cả việc các nhà khoa học đã giữ lại bộ não của Dahmer để phục vụ cho nghiên cứu nữa?) Những gợi nhớ đó của Ayman đã khiến cô lo lắng, nhưng còn không bằng sự trang trọng của Nayir.

“Chúng ta chưa từng có vụ nào như thế này cả.” Anh nói. “Loại quỷ sa tăng đó. Hắn ta chỉ tồn tại ở một quốc gia nào khác, chứ không phải ở đấy.”

“Có thể” Cô nói. “Hoặc có thể chỉ vì chúng ta chưa bao giờ để ý. Phải mất nhiều năm họ mới phát hiện ra vụ này”

Điều này có vẻ khiến anh tức giận. “Sao bao nhiêu người mất tích như thế mà không có ai để ý được nhỉ?”

“Bọn họ đều là những lao động ngoại quốc.” Katya nói. “Có lẽ họ đã chạy trốn, không ai biết họ đã bắt đầu từ đâu nữa.”

“Và giờ thì tên giết người đã biết việc cảnh sát phát hiện ra những cái xác đó.” Anh nói. “Em nghĩ hắn ta sẽ làm gì tiếp theo nữa?”

“Em nghĩ hắn ta đã có nạn nhân kế tiếp rồi.” Cô thấy mệt mỏi. Cái nóng đã làm cô kiệt sức, và những phát hiện của ngày hôm nay chỉ khiến toàn bộ tình hình trở nên phức tạp hơn. Cô muốn anh nói với cô rằng cô thật mạnh mẽ, thật can trường.

“Có khả năng hắn sẽ phát hiện ra em.” Anh nói. “Về những người tham gia vào vụ án này.”

“Luôn có khả năng đó.”

Cô có thể thấy anh đang cố gắng thận trọng để đáp lại điều đó, nhưng cuối cùng thì anh không nói gì và trên suốt cả quãng đường còn lại để về nhà, họ im lặng trong nỗi bứt rứt khôn nguôi.

Chương 19

Buổi sáng thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần, Ibrahim vẫn đi làm. Ông không thể đối diện với việc cả ngày trời ngồi ở nhà, lo lắng một cách vô vọng về Sabria.

Ông ngạc nhiên khi thấy Majdi và Daher trong phòng khám nghiệm pháp y. Daher mặc quần jeans và áo phông chứ không phải bộ vét thường ngày. Anh ta đang ngồi bên chiếc bàn cạnh Majdi nhắn tin cho ai đó.

Điện thoại của Ibrahim rung và ông lấy máy ra khỏi túi quần. Daher đã nhắn tin cho ông. Anh ta nhắn là: Majdi đã phát hiện ra điều gì đó.

“Sao nhanh thế!” Daher nói khi anh ta nhìn thấy Ibrahim. Anh ta đứng dậy, trông có vẻ hơi ngượng ngùng khi bị bắt gặp trong bộ quần áo thường nhật. Nó gợi cho Ibrahim nhớ rằng anh ta vẫn còn trẻ biết bao.

“Anh phát hiện được điều gì vậy?” Ông hỏi.

Majdi đứng lên và ra hiệu về phía màn hình máy tính. “Chúng tôi đã nhận diện được các nạn nhân khác, những người có bàn tay được chôn ở khu mộ.” Anh ta nói. “Tên cô ta là May Lozano. Cô ta hai mươi lăm tuổi. Cô ta mất tích khoảng một năm trước.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Tại sao việc nhận diện người này lại lâu hơn so với Cortez đến vậy?”

“Tôi đã phải thực hiện bằng một phương pháp lạc hậu hơn, so sánh dấu vân tay của cô ta với một đống hồ sơ những người giúp việc mất tích nhận được từ lãnh sự quán bằng cách thủ công.”

“Thế thì phải mất nhiều công sức lắm.” Daher nói.

“Tôi đã thu hẹp được phạm vi tìm kiếm dựa vào báo cáo của Adara về việc May Lozano đã chết khoảng một năm trước. Cô ta là nạn nhân áp chót, và là nạn nhân duy nhất chúng ta tìm được cả hai bàn tay.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Có phải cô ta làm giúp việc ở đây không?”

“Vâng. Cô ta sống trong một gia đình ở Jeddah. Đó là thông tin trong báo cáo.”

Ibrahim đến nói chuyện với chủ nhà của Lozano. Cũng như Cortez, Lozano được thuê ở Manila, nhưng cô làm giúp việc ở Jeddah được năm năm rồi. Khi cô mất tích, chủ nhà đã có tường trình về người mất tích và cảnh sát đã theo sát vấn đề này. Theo như bản tường trình đó, các bạn của cô cho biết rằng mặc dù Lozano rất nhớ gia đình ở Philippines nhưng cô rất hạnh phúc khi sống ở Jeddah. Gia đình thuê cô đã trả đủ phí môi giới và cô được nhận một mức lương thỏa đáng. Họ đối xử tốt với cô.

Còn theo phía gia đình đó, cô không chạy trốn; cô yêu quý họ như chính gia đình của mình. Bọn họ đã quẫn trí khi cô biến mất. Chuyện xảy ra vào sinh nhật của cô - họ đã dự định đưa cô đến Jollibee, nhà hàng mà cô ưa thích - và họ nghi ngờ có trò xấu xa nào đó, mặc dù họ không biết ai đã bắt cóc Lozano. Cô không có kẻ thù nào, ngay cả ở Philippines cũng không. Họ thông báo với cảnh sát và đại sứ quán về việc cô biến mất, nhưng không ai tìm được cô.

Ibrahim phát hiện ra rằng họ nhận ra Lozano bị mất tích gần như ngay lập tức. Cô đã rời nhà lúc 5h15 chiều để tới Jollibee gặp một người bạn. Quãng đường đi bộ từ nhà đến nhà hàng đó chỉ qua sáu tòa nhà trên phố al-Khalidiya. Đáng lẽ cô phải gặp người bạn Mary của mình vào lúc 5h30. Bọn họ định sẽ nói chuyện một lúc trước khi gia đình chủ nhà đến lúc sáu giờ. Nhưng khi gia đình đó đến nhà hàng, họ nhận ra Lozano không có ở đó. Bạn cô vẫn đang ngồi chờ.

Ibrahim và Daher tự mình đi bộ qua sáu tòa nhà này.

“Tôi đoán là cô ta không đi taxi.” Daher nói.

Nhà hàng đó được sơn màu sặc sỡ, một kiểu biến thể của McDonald's, với một chú ong và một hũ mật ong rất lớn bằng nhựa ngay trước cửa.

Không có nhân viên nào trong tòa nhà này làm việc nhiều hơn vài tháng, ngoại trừ người quản lý tên là Arnel, người vẫn nhớ vụ mất tích của May. Anh ta là một người châu Á ngoài ba mươi tuổi có ngoại hình sáng sủa, mặc áo màu xanh dương nhạt và quần Âu màu đen. Sợi dây đỏ quanh cổ anh ta treo tấm thẻ tên. Nếu anh ta bỏ chiếc mũ lưỡi trai kiểu bóng chày màu xanh dương, có vẻ như là một phần của bộ đồng phục đó ra thì có lẽ sẽ bị nhầm tưởng là bác sĩ thực tập hoặc một chuyên gia nào đấy.

“Vâng.” Anh ta nói với vẻ buồn bã vì kỷ niệm đó. “Gia đình đó đã đến tìm cô ấy. Bạn cô ấy đã ở đây chờ. Chúng tôi có biết May. Cô ấy nhiều lần đến đây cùng với gia đình chủ nhà. Chuyện thật kinh khủng. Cô ấy không phải kiểu người giúp việc bỏ trốn đâu.”

“Anh nghĩ là cô ấy đã bỏ trốn sao?” Ibrahim hỏi.

“Đó là những gì người ta vẫn đồn đoán. Những phụ nữ này đôi khi bị ngược đãi.”

“Trông cô ấy có vẻ gì là bị ngược đãi không?”

Anh ta lắc đầu.

“Anh có thể cho tôi biết tối hôm đó anh thấy điều gì khác thường không? Bất cứ điều gì ngoài kia, hoặc trên phố? Có ai đó trông kỳ quặc không?”

“Có, có một việc. Sau đấy tôi có kể với cảnh sát, nhưng họ không cho đó là điều quan trọng. Có một phụ nữ khi băng qua đường thì bị ngất. Cô ta đã được đội Trăng lưỡi liềm Đỏ đưa đi. Cảnh sát nói họ sẽ kiểm tra lại nhưng tôi không bao giờ nghe gì về chuyện đó nữa.”

“Có khả năng người phụ nữ đó chính là May không?”

Arnel nhún vai. “Thường rất khó nhìn ra ngoài qua cửa sổ đằng trước, và chuyện xảy ra ở ngay phía dưới tòa nhà. Một nhân viên của tôi ở ngoài và anh ta đã chứng kiến việc đó. Tôi không nhìn rõ người phụ nữ đó. Tôi chạy ra ngoài và trông thấy người đàn ông kia đưa cô ta vào băng sau xe. Sau đó chiếc xe lao đi rất nhanh.”

Họ cảm ơn anh ta và bưóc ra phố.

“Sẽ mất thời gian để tìm lại người bạn của cô ta.” Daher vừa nói vừa lật mở tập giấy ghi chép của mình. “Họ nói cô ta đã rời khỏi nước mình rồi.”

Ibrahim nhìn dọc con phố, cố hình dung một chiếc xe cấp cứu ở đó. Nó hẳn phải đỗ sát một chiếc xe khác khiến một chiều giao thông phải ngừng lại.

“Ông đang nghĩ gì vậy?” Daher hỏi.

“Hung thủ có thể đã dùng taxi để bắt cóc các nạn nhân của hắn, nhưng hắn cũng có thể dùng xe cứu thương chứ.”

Daher phùng má. “Vâng, tôi cho là vậy. Nhưng như vậy thì hắn là người duy nhất đưa các nạn nhân bị thương lên xe hay sao?”

“Có thể chính hắn làm họ bị thương.” Ibrahim nói. “Việc này không thể không có khả năng xảy ra. Hắn đến từ phía sau họ, kiểu như một tên cướp. Dí súng vào lưng họ, nói rằng nếu kêu thì hắn sẽ bắn. Hắn tiêm vào người họ thứ gì đó khiến họ không thể phản kháng. Họ gục ngã vào vòng tay hắn, và hắn đưa họ vào xe. Đến khi mọi người nhận ra - tức là khi người phụ nữ đó bị ngã - họ không nghĩ có gì không ổn khi nhân viên y tế bế một người phụ nữ vào xe cứu thương. Có thể họ lo lắng cho cô ta, nhưng họ sẽ chỉ nhìn cô ta chứ không để ý đến hung thủ.”

Daher gật đầu. “Vâng, điều đó có lý.”

“Nhưng anh không có vẻ bị thuyết phục lắm.”

“Thực ra thì...”

“Cứ nói.”

Tôi chỉ cho rằng sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu hắn giả làm lái xe taxi. Hắn sẽ không phải mạo hiểm với việc một phụ nữ la hét cầu cứu hoặc ai đó chú ý đến hắn.”

Ibrahim gật đầu. “Có thể anh đúng, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên lưu tâm đến giả thuyết về nhân viên y tế.”

Chương 20

Buổi sáng thứ Sáu, tòa nhà không một bóng ngưòi. Ngày thứ Bảy mọi người sẽ trở lại làm việc, những hành lang bóng loáng sẽ lại đầy ắp tiếng nói cười, tiếng tay của Daher đập vào đầu cậu sĩ quan trẻ nào đó. Giờ thì âm thanh duy nhất phá vỡ không gian tĩnh lặng là tiếng lích kích của hệ thống điều hòa trung tâm bắt đầu chạy, và, trong suốt vài giờ liền, là tiếng gọi cho lễ cầu nguyện. Nó luôn oang oang trên loa phóng thanh của các nhà thờ địa phương khiến người ta giật bắn mình.

Ibrahim bước vào tòa nhà, tay nắm chặt cốc cà phê và cảm thấy tê liệt. Ông đã dành cả phần còn lại của ngày thứ Năm để thu xếp việc có được bản chụp những hồ sơ hành quyết cũng như hồ sơ những vụ trộm cắp bị chặt tay có hình ảnh chặt đứt tay và chân. Daher đã nhận sáng nay sẽ mang những hồ sơ đó đến, mặc dù hôm nay là ngày nghỉ, mặc dù mức lương của anh ta không đủ để khuyến khích sự tận tụy đến như thế. Ibrahim tự hỏi vu vơ liệu cuộc sống gia đình của Daher có khốn khổ như mình không.

Farrah vẫn đang ở nhà ông, chờ chồng cô về. Sự có mặt của cô là ân huệ vì cô và cặp sinh đôi khiến Jamila luôn bận rộn, và nhờ đó mà sự đay nghiến của bà ta cũng giảm đến mức tối thiểu. Vấn đề hiện giờ là họ đang trong một tâm trạng lẫn lộn. Chán nản, khi không còn vấn đề y tế để tranh cãi nữa, họ dần trở thành những tác nhân gây ra sự hư hỏng của ai đó. Kể từ khi Farrah đến gặp thầy trừ tà, ngôi nhà luôn mang hơi hưởng của những hành động điên rồ.

Ở phòng làm việc, ông nhận thấy Daher đã mang đến một nửa số hồ sơ, có lẽ là từ đêm trước. Anh ta đã sắp xếp những chiếc hộp theo hàng lối ngay ngắn trên bàn. Ibrahim đặt cốc cà phê lên bàn làm việc, kéo ghế và mở hồ sơ đầu tiên.

Ông không biết mình đang tìm kiếm gì, nhưng dù sao đi nữa ông vẫn xem qua những hồ sơ đó, cố tránh đọc quá chi tiết. Một người đàn ông bị buộc tội giết vợ con. Một phụ nữ bị buộc tội giết mẹ. Thêm một người đàn ông nữa: một vụ án mạng của một người lạ tại một cửa hàng tiện ích. Ông xem một lượt phần lớn những hồ sơ của năm 2003 và không tìm thấy gì ngoài những vụ án mạng. Điều đó quả có hơi bất ngờ.

Ông chuyển sang những hồ sơ của năm 2007. Những hồ sơ này có đa dạng hơn một chút. Hầu hết các vụ hành quyết đều vì tội giết người, nhưng thường không liên quan đến vấn đề phạm tội hàng loạt. Một tên ở Chad đã bị xử tử vì tội bắt cóc trẻ em, hãm hiếp, trộm cắp, và sử dụng ma túy. Hắn mới hai mươi mốt tuổi. Còn nhiều tội nữa bị hành quyết là buôn bán ma túy, và thậm chí là tình dục đồng giới.

Ông nghe thấy tiếng sập cửa ở phía cuối hành lang, tiếng bước chân cọ vào tấm vải sơn lót sàn nhà. Daher bước vào mang trên tay hai hộp hồ sơ nữa. Mồ hôi nhỏ giọt trên má anh ta.

“Salaam aleỉkum(1).” Anh ta vừa lầm rầm nói vừa đặt hai chiếc hộp xuống sàn nhà phía cạnh bàn. “Đấy là mấy cái cuổi cùng.”

(1) Lời chào theo phong tục Hồi giáo.

“Tốt lắm. Cảm ơn anh đã mang chúng đến.”

Daher đứng cạnh cửa, đắn đo cân nhắc. Rồi anh ta kéo một chiếc ghế ra.

“Anh không phải ở lại đâu.” Ibrahim nói.

“Dĩ nhiên là tôi ở lại chứ!” Daher nói. “Tất cả chúng ta nên làm việc ngoài giờ. Đây là một vụ quan trọng.” Anh ta có phần lúng túng ngồi xuống cạnh sếp mình rồi kéo mở một tập hồ sơ. “Chúng ta sẽ tìm gì đây?”

Ibrahim giải thích điều mà Katya đã nói với ông qua điện thoại và thận trọng khi nhắc đến cả Tiến sĩ Becker nữa để tránh làm cho Daher đố kỵ cho rằng ông chỉ tập trung vào Katya. Bất ngờ thay, Daher rất biết công việc. Anh ta thậm chí còn nói chen ngang: “Và tất nhiên đó là lý do tại sao hắn ta chôn mười chín thi thể. Hắn mơ mộng rằng mình là thiên sứ của đấng Allah.”

“Chuyện có vẻ là vậy.”

“Vậy chính xác chúng ta tìm kiếm điều gì?” Daher hỏi lại.

“Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể tìm được kẻ nào bị trừng phạt vì tội trộm cắp và hắn có người thân bị xử tử, nhưng có vẻ như điều này là không thể có...” Ibrahim nhún vai. “Cứ cho tôi biết nếu có gì đáng chú ý nhé.”

Daher có vẻ nhận thấy tính chất phù phiếm của công việc này, nhưng dù sao anh ta vẫn dấn thân vào làm. Bọn họ im lặng đọc một hồi.

“Ông nghĩ sao về cái thứ mười chín đó?” Daher hỏi. “Ông có nghĩ là có quy luật bí ẩn ẩn chứa trong kinh Koran không?”

Anh ta đang có ý nhắc đến cảnh tượng các học giả Hồi giáo lao mình vào những thuyết âm mưu về các con số và kinh Koran. Thí dụ như, ai cũng biết từ cầu nguyện xuất hiện trong kinh Koran năm lần (gắn với thực tế rằng người Hồi giáo có năm lễ cầu nguyện bắt buộc trong một ngày), từ tháng xuất hiện chính xác là mười hai lần, và từ ngày xuất hiện chính xác là ba trăm sáu mươi lăm lần. Nhưng điều đó không có nghĩa mọi thứ đều là một phần của quy luật bí ẩn nào đó.

Dường như những học thuyết về tầm quan trọng của con số mười chín đã thống trị tư duy âm mưu. Mười chín chính là số câu thơ mà tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã trao lại cho nhà tiên tri Mohammed trong hai chuyến viếng thăm đầu tiên tới hang đá. Mười chín cũng chính là số ký tự của câu thơ đầu tiên trong chương một của kinh Koran, một câu thơ đã được nhắc lại năm mươi tư lần trong toàn bộ cuốn kinh. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ chương duy nhất mà từ mười chín được nhắc đến lại là chương có tên “Bí mật ẩn giấu.”

“Tôi cho rằng con số mười chín không có gì đặc biệt cả.” Ibrahim đáp. “Ngoại trừ đối với tên sát nhân của chúng ta, có lẽ vậy.”

Họ tiếp tục đọc. Daher trở nên nghiêm túc và im tiếng hơn theo cách mà Ibrahim trước đây chưa bao giờ thấy. Trong giây lát, Ibrahim hình dung một ngày nào đó mình trở thành chánh thanh tra.

“Có lẽ ý kiến của Tiến sĩ Becker rất hợp lý.” Daher nói. “Ai đã từng chặt tay chứ? Một đao phủ, phải vậy không nào? Có ai đã nghĩ đến việc hắn có thể là người của chúng ta chưa?”

“Theo những gì tôi biết, thì anh đã vừa khởi nguyên giả thuyết đó.”

“Dù hắn có là ai đi nữa, thì hắn có cảm giác phiêu lưu khi làm việc này. Ít nhất thì đó chính là từ đã được Thiên thần Charlie nhắc đến.”

“Tôi thấy lẫn lộn khi Tiến sĩ Becker vô tình bị đặt biệt hiệu là Thiên thần, giống như tên giết người tâm thần của chúng ta vậy.”

“Thực ra,” Daher đáp lời, “hắn không phải thiên thần, hắn là sát thủ thiên sứ.”

“À.”

“Và cả hai đều là người Mỹ.” Daher nói thêm.

“Anh sắp sửa phải gạt bỏ cái ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí mình rồi đấy. Tôi đã đọc hồ sơ hành quyết của năm năm rồi, và anh có biết tôi thấy gì không? Cả một bầy sát nhân người Ả Rập Xê-Út. Nếu giết ngtrời là một loại vi-rút thì chúng ta đã chậm chuyển đổi mất rồi.”

Daher đưa ra một cách lý giải lịch thiệp cho vấn đề này. “Thực lòng, tôi nghĩ nó phù hợp vì chúng ta có hai thiên sứ trong vụ này. Một tốt, một xấu.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Và anh nói đúng, người hành hình sẽ có những công cụ cho công việc của mình, và có lẽ cả sự thích thú khi thực hiện công việc đó nữa.”

“Nhưng ông đã chứng kiến những cuộc hành quyết rồi đấy.” Daher nói. “Ông có thấy cái lúc chặt đầu người, cảnh sát phải lôi đao phủ ra ngoài. Họ đứng đó chờ đợi để lôi anh ta đi bởi họ lo ngại anh ta sẽ nổi cơn khát máu và gây hại cho những người khác. Ngay tại quảng trường! Trước mắt hàng trăm con người! Nhưng sự khát máu là có thật. Họ luôn phải lôi anh ta ra ngoài.”

Ibrahim đã từng chứng kiến những vụ hành quyết khi còn là một sĩ quan, cùng gần như vậy. “Điều đó đúng, nhưng cũng là truyền thông nữa. Trông anh ta có vẻ gì cần phải kéo đi không?”

“Thinh thoảng, có chứ!”

Ibrahim cố sắp xếp những hình ảnh đang dựng lên trong tâm trí ông về tên giết người hàng loạt với cảm tưởng của chính ông đối với một đao phủ từng gặp. Daher đã đúng về nhiều mặt, nhưng trong tâm can Ibrahim lại muốn phản bác.

“Tôi đã một lần trò chuyện với một đao phủ.” Ibrahim nói. “Anh biết anh ta nói gì về công việc của mình không? Anh ta đang nâng cao nhận thức.”

Daher phá lên cười.

“Đó chính là cách anh ta mô tả về công việc đó.” Ibrahim nói tiếp. “Nâng cao nhận thức về sự ghê rợn của việc giết người và cố gắng để khuyến khích mọi người không phạm phải những sai lầm trong giây phút cuồng dại mà hủy hoại cả cuộc đời mình.”

Daher cưòi toét miệng. “Điều đó thật buồn cười. Tôi đoán chắc anh ta nghĩ hầu hết những tên sát nhân đều không có tự chủ. Phải vậy không?”

Ibrahim nhún vai. “Phần lớn những ai giết người đều mất tự chủ, có khi chỉ trong giây lát.”

“Nhưng không phải tên giết người Thiên sứ đó.” Daher nói. “Hắn ta lập kế hoạch cho việc đó.”

Lại có tiếng bước chân ngoài hành lang và Daher bật dậy khỏi ghế. Trong một phần giây trước khi lao về phía cửa, cánh tay phải của anh ta vung sang bên hông. Anh ta tìm khẩu súng ngắn không mang theo khi vào trụ sở trống không vào thứ Sáu. Ibrahim giật mình.

Daher quay vào với vẻ khinh ghét. “Cô Hijazi đang ở đây.” Anh ta nói.

Katya đứng trước cửa văn phòng. Cô đang ôm hai tập hồ sơ.

“Xin chào.” Ibrahim chào và đứng dậy. “Quả là một bất ngờ thú vị, cô Hijazi. Mời cô vào.”

“Chào ông.” Cô đáp. “Tôi chỉ đến lấy một số hồ sơ thôi.”

“Tại sao cô lại làm việc?” Daher hỏi với thái độ không đồng tình thấy rõ. “Hôm nay là thứ Sáu đấy!”

“Thế không phải cũng là thứ Sáu với anh sao?” Katya vừa hỏi lại vừa đi qua anh ta để vào văn phòng. Cô nói với Ibrahim: “Tôi đã ra ngoài sa mạc hôm qua. Tôi đến hiện trường.”

“Cô tự đi một mình đến đó sao?” Daher hỏi.

“Không, tôi đi cùng nhóm Murrah. Talib al-Shafi và các cháu của ông ấy đi cùng tôi và chồng tôi.”

“Cô đã được phép làm việc đó đấy chứ?” Daher vừa hỏi vừa nhìn Ibrahim. “Tôi chẳng biết gì về việc này cả.”

“Chúng tôi không dành nhiều thời gian ở khu vực hiện trường.” Katya vẫn tiếp tục nói chuyện với Ibrahim. “Chúng tôi đi về phía tây và đã tìm được địa điểm mà chúng tôi cho rằng tên sát nhân đã trở lại. Tôi đoán hắn ta đã quay lại đó, nếu không thì làm thế nào hắn biết chúng ta đã phát hiện ra những cái xác ấy? Và chúng tôi cho rằng hắn biết điều này, bởi bàn tay của Amina”


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .